Bài thuốc chữa ho do táo nhiệt

Ho do táo nhiệt y học cổ truyền gọi đàm nhiệt khái thấu. Nguyên nhân do khí trời táo nhiệt, lại gặp phải người vốn nhiệt tạng, đờm với nhiệt quấn quýt lấy nhau phát sinh bệnh. Bệnh nhân phát sốt rồi sinh ho, đờm nhiều và dính đặc, sắc vàng như mủ, hơi thở gấp; trong người bức bách khó chịu, mạch phù, hoạt, rêu lưỡi vàng và nhờn bẩn...

Ho do nhiệt hay gặp trong bệnh ho gà, viêm phổi, viêm khí quản, áp-xe phổi mủ, tâm phế mạn, hen suyễn...

Dùng bài Tả bạch tán gồm: tang bạch bì 40g, địa cốt bì 40g, sinh cam thảo 20g. Ba vị sấy khô tán bột mịn. Mỗi lần dùng 20g bột cùng với 20g gạo tẻ, 30 lá trúc diệp, đun với 2 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống nóng 1 lần. Gia giảm: nếu có sốt gia tri mẫu 12g, hoàng cầm 12g.

Nếu sốt đã giảm, đờm loãng dễ ra; trong người bớt bức bách khó chịu, khát nước, rêu lưỡi vàng nhờn nên dùng bài Thanh phế thang gồm: mạch môn đông 12g, tri mẫu 12g, cam thảo 4g, hoàng cầm 8g, thiên môn đông 12g, bối mẫu 12g, quất hồng 4g, tang bạch bì 12g. Các vị cho vào nồi, đổ 3 bát nước, đun cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống 1 lần.

chua hoHo do táo nhiệt (đàm nhiệt khái thấu) hay gặp trong viêm khí quản, viêm phổi, tâm phế mạn, áp-xe phổi.

Nếu người vẫn sốt, đau đầu, ho khan, khí nghịch mà suyễn, ngực đầy tâm phiền, họng khô mũi ráo, lưỡi khô không rêu, mạch hư đại mà sác; hay gặp ở viêm phế quản, giai đoạn phục hồi sau viêm phổi, họng tê mất tiếng;

Dùng bài Thanh táo cứu phế thang: thạch cao 20g, tang diệp 12g, hạnh nhân 12g, a giao 12g, tỳ bà diệp 12g, cam thảo 4g, nhân sâm 12g, hồ ma 12g, mạch môn đông 20g. Đun với 5 bát nước, cạn còn 2 bát, bỏ bã, chia uống 2 lần. Gia giảm: đờm nhiều, thêm bối mẫu 12g, qua lâu 12g; huyết khô gia sinh địa 24g; nhiệt nhiều, thêm thủy ngưu giác 12g, linh dương giác 4g hoặc thêm ngưu hoàng 4g.

Nếu đại tiểu tiện bí và sáp, suyễn thấu mãi không dứt, đờm đặc dính, sắc vàng, đó là nhiệt nhiều.

Dùng bài Nhân sâm tả phế thang: sơn chi 12g, liên kiều 12g, đại hoàng 12g, chỉ xác 4g, nhân sâm 8g, cát cánh 3g, bạc hà (để riêng) 4g, hoàng cầm 12g, cam thảo 4g, hạnh nhân 12g, tang bì 12g. Đun với 3 bát nước, cạn bớt 1 bát, bỏ bạc hà vào, đun cạn 1 bát, bỏ bã, uống làm 1 lần.

Nếu tới thời kỳ nhiệt thịnh làm hại tới phế lạc, mỗi khi ho bật ra máu tươi... Dùng bài Ngọc nữ tiễn hoặc Thái bình thang:

Thái bình thang: thạch cao sống 40g, bạch mao căn 40g, sinh địa 40g, ngẫu tiết thán 40g, đại hoàng thán 12g. Đun với 1 bát đồng tiện và 3 bát nước, cạn còn 2 bát, bỏ bã. Chia uống 2 lần.

Ngọc nữ tiễn: sinh thạch cao 24g, tri mẫu 12g, mạch đông 16g, sinh địa 32g, ngưu tất 12g. Đun với 5 bát nước còn 2 bát, bỏ bã, chia uống 2 lần.

Bài Ngọc nữ tiễn vừa chỉ huyết lại kiêm cả bổ; bài Thái bình thang chuyên chỉ huyết mà không bổ. Nếu trong đờm có huyết hình thể hư thì uống bài Ngọc nữ tiễn, hình thể thực thì uống Thái bình thang.

Lương y Thảo Nguyên

Chữa bệnh bằng mực tàu

Mực tàu là một loại mực màu đen được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước phương Đông và một vài nước khác như Ai Cập, Anh... trong quá khứ để viết, in và vẽ. Trong ngôn ngữ như tiếng Anh, mực tàu được gọi là Indian ink hay India ink (tức là mực Ấn Độ), tuy nhiên, nguồn gốc chính xác của nó thì cho đến nay vẫn chưa rõ ràng, chỉ biết rằng, các chuyên luận sớm nhất về nghệ thuật có nói đến mực tàu do người Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại sản xuất ra. Nền tảng của mực này là chất màu cacbon đen pha trong chất keo lỏng hay các môi trường gắn kết khác. Theo cổ thư Trung Quốc, mực tàu được làm từ muội than của nhựa hoặc gỗ cây thông bị đốt cháy rồi hoà với chất keo và hương liệu. Tuy nhiên, muội than của các dạng gỗ khác nhau cũng được sử dụng và sẽ tạo ra các loại mực có tông màu khác nhau.

Trong các dược thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo thập di, mực tàu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ô kim, trần hương, huyền hương... và được dùng làm thuốc với vị cay, tính bình, không độc, vào được các đường kinh tâm, can và thận, có công dụng chỉ huyết (cầm máu) và tiêu thũng (làm hết phù nề), được dùng để chữa các chứng bệnh như thổ huyết (nôn ra máu), nục huyết (chảy máu cam), băng huyết, huyết lỵ (kiết lỵ phân có lẫn máu), ung thũng phát bối (nhọt độc ở vùng gáy, lưng)... Theo sách Cương mục, mực tàu có tác dụng lợi tiểu tiện, điều hoà kinh nguyệt; sách Khai ngọc bản thảo cho rằng mực tàu có khả năng chỉ huyết, sinh cơ phu; theo sách Bản thảo tái tân, loại mực này có công năng bình can thanh phế, trừ phong nhiệt, chỉ khái thấu, sinh tân giải khát. Trong y dược học cổ truyền, mực tàu được dùng để chữa khá nhiều bệnh khác nhau. Nên chọn loại mực để càng lâu thì càng tốt, nếu uống trong thì lấy 1 - 3 tiền mài uống hoặc tán bột trộn với các vị thuốc khác để làm thuốc hoàn tán, nếu dùng ngoài thì mài với nước để bôi xoa.

Chữa nôn ra máu: bột mực tàu 2 tiền hoà với nước a giao uống.

Chữa chứng chảy máu cam: nước mực tàu đặc nhỏ vào lỗ mũi.

Trị băng huyết: bột mực tàu 1 thìa uống.

Chữa chứng xích bạch lỵ (kiết lỵ đi ngoài phân có máu hoặc nhầy mũi): can khương và mực tàu mỗi thứ 2 lạng hoà với dấm làm thành viên hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống vài lần, mỗi lần 30 viên với nước cơm.

Trị nhọt độc ở lưng: dùng mực tàu mài với dấm xoa xung quanh tổn thương, ở giữa lấy mật lợn bôi...

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Bài thuốc chữa bạch điến

Bạch điến phong là tình trạng có từng vùng trên da tự nhiên xuất hiện các đốm trắng, có thể lan tràn sang các vùng lân cận, thường không đau, ít ngứa. Đông y cho nguyên nhân gây bệnh do tâm hỏa vượng, mồ hôi ra quá nhiều hay do uống rượu quá độ làm bì phu và khiếu khai mở bất bình thường làm huyết thiếu tại bì phu, phong tà thừa hư mà xâm phạm vào bì phu tấu lý, ẩn phục lâu ngày gây tổn thương bì phu cơ nhục mà gây bệnh.

Người bệnh có biểu hiện trên da xuất hiện những đốm màu trắng, bề mặt phẳng như các vùng da khác, không đau, ít ngứa. Bệnh hay gặp ở tuổi trung niên và hay lan tràn sang các vùng lân cận. Đa số tồn tại kéo dài, có khi suốt đời, không có biến chứng, không ảnh hưởng sức khỏe, chỉ gây mất thẩm mỹ. Phép điều trị là dưỡng âm, bổ huyết, khu phong, thanh nhiệt. Sau đây là một số bài thuốc để chữa trị:

Thuốc uống:

Bài 1: Thông khiếu hoạt huyết thang: xích thược 3g, đào nhân 9g, lão thông 3g, xuyên khung 3g, hồng hoa 9g, hồng táo 5g, xạ hương 0,15g. Thêm rượu loãng, sắc uống. Hoạt huyết thông khiếu. Chữa bạch điến phong. Không dùng cho phụ nữ có thai.

Tạo giác

Bài 2: Truy phong hoàn: hà thủ ô 16g, kinh giới tuệ 16g, thương truật 16g, khổ sâm 16g, tạo giác tử 32g. Các vị tán bột mịn, dùng hạt tạo giác nấu kỹ, đánh nhuyễn, lọc lấy hỗn dịch; trộn với bột làm viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 - 15g với rượu hoặc nước chè, tùy tuổi và thể trạng. Bài này có tác dụng tháo thấp khu phong. Chủ trị bạch điến.

Bài 3: Hồ ma tán: hồ ma tử 20g, bạch chỉ 12g, hà thủ ô đỏ 4g, mạn kinh tử 4g, cúc hoa 4g, khổ sâm 12g; uy linh tiên, thăng ma, phòng phong, đương quy, bạc hà diệp, hoàng liên, hoàng cầm, bạch thược, xuyên khung, ngưu bàng tử mỗi loại 8g; bạch tật lê 12g, kinh giới tuệ 12g. Các vị sấy khô, tán bột, dùng hồ làm viên. Ngày uống 3 lần; mỗi lần 20g. Từ xuân phân đến thu phân, uống với rượu trắng; từ thu phân đến xuân phân, uống với thanh trà.

Bài 4: hồng hoa, đương quy, thục địa, sinh địa, hạ khô thảo mỗi loại 12g; tiêu tứ tiền, hồ ma tử, sa uyển tử, hà thủ ô mỗi loại 16g. Sắc uống.

Thuốc dùng ngoài:

Bài 2: phá cố chỉ 63g, cồn 700: 200ml. Ngâm trong 7 ngày, gạn lấy rượu thuốc, bôi lên chỗ bạch điến, lang ben. Ngày 1 lần. Dùng phá cố chỉ có tác dụng tăng cường sắc tố da.

Bài 1: thỏ ty tử (cả thân và hạt) 25g, ngâm trong 100ml cồn 800 trong 2 ngày, đem xát vào vùng bị bệnh. Ngày 2 - 3 lần.

Bài 3: thủy ngân và trầu không giã nhỏ mịn, để trong lọ thủy tinh kín ít nhất 15 ngày. Lấy bột bôi lên vết bạch điến.

Bài 4: lưu huỳnh 20g, hùng hoàng 10g, phá cố chỉ 30g, ngâm với 100ml cồn 800. Dùng hỗn dịch này sát vào vùng bị bạch điến hằng ngày.

Lương y Thảo Nguyên

Các bài thuốc trị quai bị

Hằng năm vào khoảng thời gian giao mùa (thu - đông hoặc đông-xuân) thường xuất hiện bệnh quai bị, Đông y gọi quai bị là “xạ tai”, ‘hà mô ôn” hoặc “tháp tai thũng”.

Bệnh do viêm nhiễm tuyến nước bọt cấp tính, thường do virut gây nên, mang tính dịch tễ, lây truyền nhanh và thường gặp ở trẻ dưới 12 tuổi, nhiều nhất là 5-8 tuổi.

Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ hơi sốt, có cảm giác đau nhức vùng dưới mang tai, sau 4-5 ngày tự khỏi. Khi bị nặng, bệnh nhân sốt cao, gai gai rét, đau đầu, mang tai sưng to, có thể bị một hoặc cả hai bên, cảm giác đau nhức, nhai hoặc nuốt khó khăn, người bệnh bứt rứt khó chịu, mệt mỏi.

Bệnh dễ lây qua đường hô hấp, để phòng bệnh cần cách ly, hạn chế tiếp xúc, đặc biệt khi bị bệnh nên để trẻ nghỉ ngơi, không nên cho trẻ chạy nhảy, nghịch ngợm hoặc ra mưa, gió để đề phòng các biến chứng viêm tinh hoàn hoặc buồng trứng có thể gây vô sinh.

Viêm tuyến nước bọt mang tai thường gặp trong bệnh quai bị.

Xin giới thiệu các bài thuốc thường dùng để chữa trị bệnh này.

Bài 1: hạ khô thảo 12g; tam lăng, nga truật, hồng hoa, đào nhân, long đởm thảo, sài hồ mỗi thứ 6g; đương quy, cát cánh, lệ chi hạch, xuyên luyện tử, huyền hồ mỗi thứ 10g; cam thảo 4g. Sắc uống.

Bài 2: sài hồ 8g, ngưu bàng tử 8g; hoàng cầm 8g; bạch cương tàm 8g; thăng ma, cát cánh, thuyền thoái mỗi thứ 6g; cát căn 16g; thiên hoa phấn 10g; thạch cao sống 20g; cam thảo 3g. Sắc uống.

Bài 3: Dùng phương Sài hồ cầm bối thang gồm: sài hồ, bán hạ, mẫu đơn bì, hoàng cầm, chi tử mỗi thứ 10g; bối mẫu 6g; liên kiều, huyền sâm, mẫu lệ mỗi thứ 15g. Sắc uống.

Bài 4: kinh giới 10g, cỏ sữa 10g, rau má 10g, sài đất 10g, kim ngân hoa 12g, sâm đại hành 12g, tang bạch bì 10g, huyền sâm 10g, địa cốt bì 10g, cam thảo dây 6g, sinh địa 10g. Sắc uống.

Bài 5: đậu đỏ 15g, rễ chàm mèo 15g, thanh bì 6g, kim ngân hoa 6g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần, uống 3-4 thang liên tục.

Bài 6: Dùng bài Sài hồ cát căn thang: sài hồ 12g, cát căn 16g, thạch cao 24g, thiên hoa phấn 10g, hoàng cầm 12g, cam thảo 6g, ngưu bàng 10g, liên kiều 8g, cát cánh 12g, thăng ma 10g. Sắc uống.

Má phải bị sưng nề do quai bị.

Bài 7:

bản lam căn 10g, đại thanh diệp 10g, liên kiều 10g, kim ngân hoa 12g, cam thảo 6g. Sắc uống.

Bài 8: cát căn 6g, xích thược 9g, qua lâu 9g, thiên hoa phấn 9g, liên kiều 9g, đại thanh diệp 9g, kim ngân hoa 6g. Sắc uống ngày 1 thang, uống 3-6 ngày.

Bài 9: Phương Tứ thuận thanh lương ẩm: phòng phong 10g, sơn chi 12g, liên kiều 12g, cam thảo 6g, đương quy 12g, xích thược 10g, khương hoạt 10g, đại hoàng 8g, đăng tâm thảo 10g. Sắc uống.

Cách nhận biết bệnh quai bị

DSCKI. Phạm Hinh

Chữa mất ngủ bằng hoa

Sau đây xin giới thiệu những phương thuốc chữa mất ngủ từ các loại hoa để bạn đọc tham khảo.

* Hoa hồng tươi 50g (nếu khô dùng 15g), tim lợn hoặc dê 500g, muối tinh 50g, gia vị vừa đủ. Cho hoa hồng và muối tinh vào nồi, đổ nước sắc trong 10 phút, để nguội. Tim lợn hoặc dê rửa sạch, thái miếng, để ráo nước rồi nhúng vào nước hoa hồng nhiều lần, vừa nhúng vừa nướng trên bếp than hoặc lò nướng cho đến khi chín là được, ăn nóng. Công dụng: Sơ can giải uất, dưỡng tâm an thần, dùng rất tốt cho trường hợp mất ngủ do tâm huyết hư.

* Hoa hồng 12g, hợp hoan hoa 10g. Hai thứ đem ngâm trong nước 10 phút rồi sắc lấy nước, uống ấm trước khi đi ngủ. Công dụng: Thư uất, lý khí, an thần.

* Hoa mai trắng 5g, hợp hoan hoa 10g, rượu vang 50ml. 3 thứ cho vào nồi sắc cách thủy, uống ấm sau bữa ăn tối 60 phút. Công dụng: Sơ can khai uất, lý khí an thần, dùng cho trường hợp mất ngủ kèm theo đau đầu, chóng mặt, trí nhớ giảm sút.

* Hợp hoan hoa 50g, mật ong 100g, rượu trắng 300ml. 3 thứ cho vào bình kín, ngâm trong 7 ngày là dùng được, mỗi tối uống trước khi đi ngủ chừng 10 - 20ml. Công dụng: Giải uất lý khí, an thần hoạt lạc.

hoa bách hợp

Hoa bách hợp

* Hoa bách hợp 20g, rượu vang 50ml. Hai thứ đem sắc cách thủy, uống ấm 1 lần vào buổi tối. Công dụng: Nhuận phế, thanh hỏa, an thần, dùng cho trường hợp mất ngủ kèm theo cảm giác nóng lòng bàn tay chân, ngực, bụng bồn chồn rạo rực không yên, táo bón, đổ mồ hôi trộm...

* Hoa hiên 30g, đường phèn 15g. Hoa hiên rửa sạch thái vụn, cho vào nồi, đổ nước sắc trong 15 phút, khi được thì hòa đường phèn, uống vào buổi tối trước khi đi ngủ. Công dụng: Thanh nhiệt trừ phiền, giải uất an thần.

* Hợp hoan hoa 15g, bách hợp 20g, gạo tẻ 60g. Hợp hoan hoa rửa sạch, sắc kỹ lấy nước bỏ bã, cho gạo tẻ vào ninh thành cháo, khi gần được thì cho bách hợp vào, ăn vào buổi tối. Công dụng: Thanh tâm nhuận phế, thư uất an thần, dùng cho những trường hợp mất ngủ do tâm tỳ hư nhược.

* Hoa bách hợp 60g, hợp hoan hoa 60g. Hai thứ sấy khô, tán bột, mỗi tối trước khi đi ngủ uống 6g với rượu vang. Công dụng: Thanh nhiệt nhuận phế, thư uất an thần.

* Cúc tươi 30g, thịt gà 300g, đậu Hà Lan 20g, dầu thực vật, lòng trắng trứng gà, nước dùng, rượu vang, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Cúc hoa sắc kỹ lấy nước bỏ bã; thịt gà rửa sạch, loại bỏ gân, thái chỉ rồi trộn đều với lòng trắng trứng gà và một chút bột mì; cho dầu thực vật vào chảo đun nóng già rồi cho thịt gà vào đảo cho săn miếng thịt; phi hành tỏi cho thơm rồi đổ nước sắc cúc hoa, thịt gà, gừng tươi thái chỉ và một chút rượu vang vào, đun sôi vài phút là được, ăn nóng. Công dụng: Thanh can minh mục, khu phong trấn tĩnh, dùng cho trường hợp mất ngủ kèm theo đau đầu, nhức mỏi mắt, thị lực suy giảm, tăng huyết áp.

* Hoa bách hợp tươi 30g, đậu phụ 250g, tiết lợn 100g, vừng 15g, tỏi giã nát 15g, hạt tiêu 2g, nước dùng và gia vị vừa đủ. Hoa bách hợp rửa sạch, tỉa lấy các cánh hoa, chần qua nước sôi rồi vớt ra ngâm trong nước lạnh độ 1giờ; đậu phụ và tiết lợn luộc qua, cắt miếng; nước dùng đun sôi rồi cho hoa bách hợp, đậu phụ, tiết lợn, vừng và tỏi giã nát vào, chế đủ gia vị, đun nhỏ lửa cho sôi một lát là được, dùng làm canh ăn hằng ngày. Công dụng: Bổ tâm dưỡng huyết, thanh phế an thần.

* Cam cúc hoa 60g, hợp hoan hoa 15g, linh chi 30g, bá tử nhân 30g, toan táo nhân 30g. Các vị rửa sạch, sắc trong 90 phút, chia uống vài ba lần trong ngày. Công dụng: Dưỡng huyết nhu can, thanh tâm an thần, dùng cho trường hợp mất ngủ thể âm hư hỏa vượng, biểu hiện bằng các triệu chứng có những cơn bốc hỏa, lòng bàn tay chân nóng, ngực bụng bức bối không yên, đầu choáng mắt hoa, hay mê mộng, đổ mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ...

* Hoa bách hợp tươi 25g, cá diếc 2 con (500g), dầu thực vật, gừng tươi, rượu vang và gia vị vừa đủ. Hoa bách hợp tỉa lấy cánh rửa sạch; cá diếc làm sạch, bỏ nội tạng; cho dầu thực vật vào chảo đun nóng già rồi cho cá diếc vào rán qua, sau đó chế nước vừa đủ, bỏ hoa bách hợp và gia vị rồi đun nhỏ lửa cho chín, ăn nóng. Công dụng: Kiện tỳ ích khí, thanh tâm an thần.

* Hoa nhài 16g, thạch xương bồ 6g, trà xanh 10g. Tất cả đem hãm vào nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Kiện tỳ ích khí, thanh tâm an thần.

* Hoa chuối 30g, tim lợn 1 quả. Hoa chuối rửa sạch, thái nhỏ. Tim lợn rửa sạch, bổ tư, hai thứ cho vào nồi đun trong 30 phút, sau đó bỏ bã thuốc, ăn tim lợn và uống nước. Công dụng: Bình can giáng nghịch, ích khí an thần, trấn tĩnh.

* Hoa thiên lý vừa đủ, rửa sạch, đem xào với tim và bầu dục lợn hoặc nấu canh với thịt nạc ăn hằng ngày.

BS. Hoàng Xuân Đại

Vì sao y học cổ truyền vẫn bị “lép vế”?

tư vấn trực tuyến yhct Buổi tư vấn truyền hình trực tuyến "Chữa bệnh theo phương pháp y học cổ truyền" do báo Sức khỏe & Đời sống tổ chức

Chữa khỏi bệnh bằng cả tây y và đông y

TS. Phùng Tuấn Giang – Chủ tịch Viện Nghiên cứu Phát triển Y dược Cổ truyền Việt Nam, Chủ tịch Tổ chức Quốc tế Chữa bệnh bằng liệu pháp thiên nhiên tại Việt Nam cho biết, điểm giống nhau giữa y học hiện đại và y học cổ truyền là cả 2 nền y học đều có mục tiêu chung là vì người bệnh. Sự khác nhau giữa 2 nền y học là: Y học hiện đại (YHHĐ) là nền y học thực chứng, thực nghiệm hiện đại.  Y học cổ truyền (YHCT) dựa vào tri thức bản địa, kinh nghiệm dân gian, âm dương ngũ hành, thiên nhân hợp nhất. Hiện nay một số bệnh viện kết hợp YHCT và YHHĐ, đưa vào các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng để nâng cao chất lượng điều trị. YHCT chọn phương pháp hóa giải. Con người là một bộ mát hoàn thiện, có thể tự điều chỉnh âm dương, có thể tự chữa bệnh. Khi mất cân bằng khả năng tự điều chỉnh mất đi. Đây là phương pháp đặc biệt của YHCT. YHHĐ sử dụng chất từ thiên nhiên, hoặc tổng hợp, bán tổng hợp. Còn YHCT chọn chất từ thiên nhiên, động vật hoặc khoáng vật. Nhiều nhà khoa học hiện đã đưa máy móc khoa học vào tăng sinh khả dụng các sản phẩm YHCT để người dân dễ dàng sử dụng.

Theo TS Giang, có một số bệnh ung thư nên lựa chọn phương pháp điều trị của YHHĐ để khống chế bệnh, sau đó duy trì và tăng cường thể trạng bằng phương pháp YHCT rất tốt. Các bài thuốc của YHCT có mục tiêu làm giảm tác hại của hóa xạ trị, tăng cường thể trạng, tăng cường miễn dịch, hạn chế di căn xa, kiểm soát khối u rất tốt. Vì vậy, sau khi điều trị hóa trị, xạ trị, bệnh nhân có thể tìm đến YHCT để điều trị củng cố sức khỏe, phối hợp với YHHĐ để giúp chữa bệnh một cách tốt nhất. Nhiều người bệnh đã chữa khỏi bệnh ung thư nhờ sự kết hợp hoàn hảo này.

chữa bệnh bằng yhctNhiều bệnh nhân đã chữa khỏi bệnh nhờ y học cổ truyền

TS.BS Trần Thái Hà - Trưởng khoa Châm cứu xoa bóp dưỡng sinh - Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương cũng dẫn chứng, với bệnh phụ khoa kết hợp điều trị cả đông y và tây y rất hiệu quả. Để cân bằng mang tính hệ thống và xử lý nội tiết một cách toàn diện đồng thời bổ huyết điều kinh thì YHCT đã điều trị cho rất nhiều bệnh nhân và rất hiệu quả. Điều trị xương khớp và dạ dày thường có tác dụng phụ lẫn nhau nếu điều trị theo thuốc tây y. Với phương pháp YHCT có thể điều trị xương khớp mà không ảnh hưởng đến dạ dày.

Dùng trái thuốc YHCT rất nguy hiểm

Theo TS.BS Trần Thái Hà - Trưởng khoa Châm cứu xoa bóp dưỡng sinh - Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương,  phương pháp điều trị bằng YHCT phân ra 2 nhóm chính. Nhóm thứ nhất là dùng thuốc YHCT như thuốc xông, thuốc bôi ngoài, thuốc uống trong, thuốc dạng viên hoặc cao hoặc sắc uống, có thể kết hợp với các thuốc y học hiện đại. Nhóm thứ hai là phương pháp không dùng thuốc, điển hình là châm cứu. Có rất nhiều hình thức châm cứu khác nhau như thể châm, nhĩ châm, trường châm, đại châm, thuỷ châm… Ngoài các phương pháp châm cứu thông thường, bệnh nhân có thể còn được kết hợp cả điện châm hoặc các phương pháp khác như: liệu pháp giác hơi, giác lửa… để kết hợp điều trị. Còn có thêm một nhóm phương pháp quan trọng để phòng và chữa bệnh là yoga, dưỡng sinh. Đó chính là những nguyên lý cơ bản của YHCT.

thuốc yhctDùng thuốc YHCT cũng phải theo đơn của bác sĩ đông y

Các phương pháp không dùng thuốc của YHCT có những ưu điểm rất đặc biệt. Dựa trên nguyên lý ngũ hành, sử dụng phương pháp châm cứu hay xoa bóp bấm huyệt hay yoga, dưỡng sinh đều để lập lại thăng bằng âm dương và giúp cơ thể lấy lại những vấn đề đã mất cân bằng và điều chỉnh lại. Nguồn gốc của nó cũng là để nâng cao sức đề kháng, nội lực của cơ thể, từ đó trị được rất nhiều chứng bệnh.

Về cách dùng thuốc đông y cũng phải dùng đúng và được các bác sĩ đông y kê đơn. Đã có nhiều bệnh nhân sử dụng thuốc đông y không đúng cách đã khiến diễn tiến bệnh nặng thêm. Vấn đề sử dụng thuốc YHCT an toàn cần phải xem xét kỹ. Nhiều khi dùng trái thuốc rất nguy hiểm. Những phương pháp điều trị YHCT tốt  thường  do các lương y, bác sĩ được đào tạo bài bản, những người có kiến thức YHCT, có trình độ, được công nhận, chứng nhận. Và nên đến khám chẩn bệnh tại cơ sở điều trị uy tín như các bệnh viện YHCT, các phòng khám YHCT và các trung tâm tư nhân thì cũng phải là những nơi được Bộ Y tế, Sở Y tế quản lý, cấp phép. TS Hà cũng cảnh báo, thuốc đông y cần kiểm soát nguồn gốc thuốc. Hiện chất lượng thuốc đông y rất đáng lưu tâm, mỗi năm VN nhập khẩu từ 70.000 - 100.000 tấn thuốc, thì 80% thuốc đông y là thuốc nhập khẩu không rõ nguồn gốc.

 

Y học cổ truyền chữa được bệnh gì? TS.BS Trần Thái Hà - Trưởng khoa Châm cứu xoa bóp dưỡng sinh Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương cho biết, YHCT chữa được nhiều bệnh nhưng nhiều người dân vẫn chưa hiểu là YHCT chữa được những bệnh gì. Bệnh viện YHCT TW là bệnh viện đầu tuyến về kết hợp YHCT với y học hiện đại để điều trị bệnh. Hàng ngày tiếp nhận khoảng 600 bệnh nhân điều trị nội trú và khoảng 500-600 bệnh nhân đến khám. Bệnh nhân đến điều trị cũng rất nhiều mặt bệnh, thường là các bệnh lý về cơ – xương- khớp, thần kinh, hô hấp, tiêu hoá, tiết niệu, sinh dục, nam học, phụ khoa... Bệnh viện có 13 khoa lâm sàng điều trị chuyên sâu. Phổ quát điều trị bệnh bằng YHCT rất rộng và người dân cần tìm hiểu rõ việc điều trị bằng YHCT.

 

Ngọc Anh

Bài thuốc trị chứng thiếu dương

Chứng thiếu dương chỉ những cơn rét, cơn sốt xen kẽ nhau, mỗi ngày có một cơn hoặc hai ba cơn, bệnh phát ra có giờ giấc nhất định, thường phát về ban ngày. Chứng này thường gặp trong bệnh ngược tật (sốt rét) hoặc âm dương cùng hư, ở người cao tuổi. Tùy từng trường hợp mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Để phòng bệnh phát ra, nếu có phát bệnh thì triệu chứng nhẹ hơn:

Bài thuốc: “Vân mẫu trư linh thang”: vân mẫu 100g, thục tất (sao) 12g, bạch vi 8g, hoàng cầm 8g, trư linh 12g, đương qui 8g, sài hồ 12g, bán hạ (chế) 8g.

Gia giảm:

Nếu rét nhiều, bỏ hoàng cầm gia long cốt 12g; nếu sốt cao, bỏ bán hạ gia tri mẫu 12g; nếu lưỡi nhớt nhiều, ăn kém, gia thảo quả 8g; nếu sốt lâu ngày không dứt, gia đảng sâm 12g, bạch truật 12g, mẫu lệ 12g, sinh khương 12g, đại táo 12g.

Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn khi thuốc còn nóng.Quế chi.

Quế chi.

Nếu sốt rét lâu ngày, cơn sốt ngày càng nặng:

Triệu chứng: Cơ thể gầy còm, lên cơn sốt rét dữ dội không có giờ nhất định, hơi thở yếu, lòng trắng của mắt xanh biếc, da khô tróc vảy, lưỡi đỏ tía, không nhuận, gốc lưỡi và giữa lưỡi có màu đen, bệnh biến chứng do tỳ thận hư suy.

Phép trị: Bổ tỳ thận tiệt ngược tà.

Bài thuốc: “Thủ ô cố chỉ thang”: hà thủ ô (chế) 20g, thục địa 10g, can khương (thán sao) 6g, phục linh 12g, phá cố chỉ 12g, phụ tử (chế) 4g, sơn thù nhục 10g, bạch truật 12g, sinh khương 12g, đại táo 12g. Gia giảm: nếu táo bón, gia nhục thung dung 10g, đương qui 10g.

Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày uống trước khi ăn hoặc lúc đói.

Do cảm nhiễm phong hàn:

Triệu chứng: khi bệnh nhân bắt đầu cơn sốt rét, thấy khó chịu nằm ngồi không yên, ngực đầy, đau đầu chóng mặt, ù tai, miệng lưỡi khô, tim hồi hộp, ra mồ hôi, tay chân run rẩy.

Phép trị: Thư can (gan) bình can ôn dương hóa ẩm, điều hòa tam tiêu.

Bài thuốc: “Sài hồ gia long cốt mẫu lệ thang”: sài hồ 12g, đảng sâm 12g, cam thảo 10g, phục linh 12g, long cốt 16g, đại táo 15g, bán hạ (chế) 10g, hoàng cầm 10g, quế chi 10g, thục đại hoàng 6g, mẫu lệ 16g, sinh khương 12g.

Gia giảm:

Nếu khí xông lên vùng ngực làm phiền loạn, đau vùng vị quản vã mồ hôi, gia bạch truật 12g.

Nếu can khí xông lên đau đầu chóng mặt, tai ù, tai điếc, co giật, nước tiểu đục, đái giắt, đau vùng lưng, tay chân tê, mạch huyền đại khẩn, gia quế chi 10g, ngô thù du 10g.

Nếu tim hồi hộp, đau vùng vị quản, bỏ quế chi, gia nhục quế 10g, sinh khương 6g; nếu vùng bụng co giật, bỏ đại hoàng, gia thục địa 6g.

Nếu chính khí suy yếu, bệnh nhân co giật, bỏ đảng sâm, gia nhân sâm 12g.

Ngày một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn, khi thuốc còn ấm.

TTND. BS. Nguyễn Xuân Hướng

Dược tề liệu pháp dành cho quý ông

Bất lực hay còn gọi là rối loạn cương dương, là một chứng bệnh đang có xu hướng gia tăng và làm khổ tâm khoảng 300 triệu nam giới trên toàn thế giới. Ðể phòng chống căn bệnh này, một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của thầy thuốc và người bệnh là tìm hiểu, nghiên cứu và sử dụng các biện pháp của y học cổ truyền, trong đó có việc xông, xoa, bôi, đắp... thuốc vào rốn, được gọi là Dược tề liệu pháp.

Phương pháp chữa bệnh độc đáo này có một lịch sử lâu đời, được ghi lại sớm nhất trong y thư kinh điển Nội kinh Tố vấn rồi sau đó được bàn luận và phát triển trong các sách thuốc nổi tiếng khác như Thiên kim yếu phương, Ngoại đài bí yếu... để chữa nhiều bệnh khác nhau, trong đó có rối loạn dương cương - chứng bệnh được Đông y gọi là “dương nuy”. Bài viết này xin được giới thiệu một số phương thang điển hình để bạn đọc tham khảo.

Phương 1:

Phụ tử 6g, xuyên ô 6g, thiên hùng 6g, quế tâm 60g, quế chi 60g, tế tân 60g, can khương 60g, xuyên tiêu 60g, tất cả thái vụn ngâm trong dầu vừng (mùa xuân 5 ngày, mùa hạ 3 ngày, mùa thu 7 ngày, mùa đông 10 ngày), sau đó đun sôi bỏ bã rồi lại đun sôi tiếp, từ từ bỏ hoàng đơn vào, quấy đều thành dạng cao, đựng trong lọ kín dùng dần. Khi dùng, quết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải rồi dán vào rốn hoặc đan điền (tương ứng với huyệt Huyết hải, ở thẳng dưới rốn 1,5 tấc). Đây là phương thang được ghi lại trong sách Trương thị y thông, có công dụng ôn thận noãn tỳ, bổ dương cường tráng, dùng để chữa bất lực thuộc thể thận dương hư suy, ngoài ra còn chữa chứng di tinh, tinh lạnh và muộn con.

Phương 2:

Tiểu hồi hương và bào khương lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, gia thêm một chút muối ăn rồi hòa với một chút sữa người hoặc mật ong hoặc tiết gà thành dạng cao, đắp vào rốn, dùng băng cố định, 5 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: bổ mệnh môn hỏa, ôn thận trợ dương, làm ấm tỳ vị, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 3:

Hành tươi 1 củ, giã nát, đắp vào rốn rồi dùng băng cố định bên ngoài, mỗi ngày sáng và tối thay thuốc 1 lần. Phương thang này ghi trong sách Tứ xuyên trung y, có công dụng ôn dương tán hàn, lưu thông kinh lạc, chuyên trị liệt dương do hàn tà xâm nhập.

Phương 4:

Dâm dương hoắc 52g, sà sàng tử 36g, ngô công 15g, băng phiến 9g, tất cả sấy khô tán bột, trộn với nước ép từ hành củ tươi thành dạng cao rồi đắp vào rốn, kế đó dùng ngón tay cái hai bên thay nhau ấn từ từ lên trên, mỗi lần từ 10 - 20 phút, mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng khi thức giấc và buổi tối trước khi đi ngủ. Công dụng: ôn thận tráng dương, khu phong trừ thấp, chuyên dùng để chữa chứng dương vật không cương hoặc có cương nhưng không cứng, xuất tinh sớm, hoạt tinh, di mộng tinh...

Phương 5:

Đại phong tử, lưu hoàng, dương khởi thạch, sà sàng tử, hương phụ, phỉ tử mỗi thứ 3g, dế mèn 1 con, xạ hương 3g. Tất cả sấy khô tán bột, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi ngày dùng 1 viên đặt vào rốn, cố định bằng băng dính. Phương thang này cũng được ghi trong sách Nhiếp sinh bí phương yếu quyết, chuyên dùng để chữa dương nuy, làm cho tăng độ cương cứng của dương vật và phòng chống xuất tinh sớm.

Phương 6:

Lưu hoàng 30g, bạch tật lê 30g, tế tân 30g, ngô thù du 15g, xuyên sơn giáp 10g, dương khởi thạch 30g, băng phiến 5g, tất cả sấy khô tán bột, mỗi lần lấy bột thuốc 3g hòa với nước cơm thành dạng cao rồi đắp lên rốn, cố định bằng băng dính, 2 ngày thay thuốc 1 lần. Thông thường sau 15 ngày là có chuyển biến, sau 2 tháng là có hiệu quả tốt.

Phương 7:

Lưu hoàng, bạch thược, bạch phàn, cam thảo và phỉ tử lượng bằng nhau, tất cả sấy khô tán bột, hòa với rượu trắng thành dạng cao rồi đắp lên rốn, dùng băng cố định bên ngoài, mỗi buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ dùng túi kín đựng nước nóng chườm lên bên trên rốn trong 20 - 30 phút, 15 ngày là 1 liệu trình. Công dụng: ôn bổ mệnh môn hỏa, cường thận tráng dương và thu liễm, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 8:

Ngô thù du 5g, tế tân 1g, quế chi 1g, tất cả sấy khô tán bột. Trước tiên, trải một mảnh gạc mỏng lên trên rốn rồi đổ bột thuốc, lại trải tiếp một lớp gạc nữa rồi dùng băng cố định bên ngoài. Mỗi tối trước khi đi ngủ dùng ngón tay cái day ấn rốn trong 5 - 10 phút, 2 hoặc 3 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: tán hàn thông lạc, cường dương cố tinh, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 15 ngày sẽ có hiệu quả rõ rệt.

BS. Hoàng Khánh Hiển

Đẩy lùi bệnh mạn tính nhờ thuốc Nam Bà Quynh

Khắc tinh của bệnh xương khớp

Một chiều đầu đông, khi những cơn gió lạnh tràn về, chúng tôi có dịp gặp Lương y Lang Thị Quynh. Được biết tới bà khá lâu, với những lời tấm tắc khen ngợi từ các cuộc hội nghị tại hội đông y nhưng nay chúng tôi mới có dịp đến mục sở thị cách chữa bệnh lừng danh của vị lương y này.

Là một trong những thành viên ưu tú của Hội đông y huyện Thường Xuân tỉnh Thanh Hóa, nhắc đến lương y Lang Thị Quynh mọi người không chỉ khâm phục tài chữa bệnh của bà mà còn nhớ đến một vị thầy thuốc luôn lấy chữ Tâm, chữ Đức là phương châm trong nghề. Tại phòng khám của bà, mặc dù đã muộn, nhưng hàng ghế chờ được lương y thăm khám vẫn có những bệnh nhân và người đến mua thuốc kiên nhẫn chờ đợi để được bà Quynh khám bệnh và tư vấn. Đặc biệt từ khi Phòng chẩn trị Y học cổ truyền Bà Quynh được khai trương đã góp phần cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; khôi phục và phát huy các bài thuốc cổ truyền quý hiếm của dân tộc.

Trong khi chờ đợi bà thăm khám cho các bệnh nhân, tôi lật cuốn danh sách dày đặc, bà ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại của bệnh nhân đã từng điều trị thành công từ bài thuốc gia truyền của mình, tôi dừng lại ở bệnh nhân Lê Văn T. sinh năm 1960 (ở, Tĩnh Gia , Thanh Hóa). Trước đây nhiều năm ông T. bị thoái hóa khớp, gai khớp gối, viêm khớp đã được bà Quynh chữa khỏi. Trực tiếp điện thoại thì được ông T. cho biết trước khi uống thuốc Bà Quynh năm 2013 ông bị sưng đau các khớp không đi lại được chỉ lết quanh nhà đến nỗi sờn rách hết không biết bao nhiêu cái quần. Ông T. cho biết hiện tại ông đã trở lại lao động sản xuất bình thường.

Hình ảnh minh họa bệnh nhân T

Rời bệnh lý xương khớp, tôi dừng lại ở bệnh nhân Lê Văn L. 65 tuổi ở Thường Xuân, Thanh Hóa. Ông L. bị đau dạ dày và viêm đại tràng 20 năm thường xuyên có cảm giác đè ép, thắt ở ngực, cảm giác khó thở, buồn nôn ảnh hưởng tới sinh hoạt và lao động. Ăn không ngon, ngủ chẳng yên ông L. đã chữa trị nhiều nơi nhưng bệnh chỉ đỡ một thời gian ngắn lại tái phát. Sau khi uống thuốc nam Bà Quynh , với những thang thuốc dễ dùng ông giảm các triệu chứng đến 90%.

Theo ghi nhận của chúng tôi khi hỏi thăm về tình hình bệnh nhân tại phòng khám của lương y thì hầu hết những người bị bệnh viêm loét dạ dày, hành tá tràng trong gian đoạn đầu thời kì bệnh phát triển đều có hiện tượng ợ chua, có khi ợ hơi vì thời kì này thường thấy dịch vị có độ chua cực kì cao. Thường bị nhiều vào sáng sớm khi ta ngủ dậy hoặc khi đói. Ợ chua, ợ hơi và đau là triệu chứng thường xuất hiện cùng một lúc và gặp ở bất kì bệnh nhân nào mới bị đau dạ dày, hành tá tràng. Đây cũng là hiện tượng bệnh trào ngược thực quản dạ dày. Hoặc một số triệu chứng khác như buồn nôn, táo bón… Nhưng tất cả chỉ vài thang thuốc nam Bà Quynh họ đã thoát bệnh.

Chia sẻ về sự phức tạp của căn bệnh dạ dày, lương y Lang Thị Quynh cho hay: viêm loét dạ dày là căn bệnh tưởng đơn giản, nhưng cực kỳ nguy hiểm, vì nó là tiền đề của bệnh ung thư dạ dày. Nếu bị ung thư dạ dày di căn, thì tỷ lệ tử vong rất cao. Viêm loét dạ dày do trào ngược là nguy hiểm nhất. Mỗi khi trào ngược, dịch tụy sẽ ngấm lên dạ dày, gây viêm loét, là cơ hội để vi khuẩn HP xâm nhập vết loét. Khi hết trào ngược, dạ dày lại lành. Quá trình cơ thể liên tục tự chữa vết loét, có thể sẽ có sai sót, và khi sai sót xảy ra, thì nguy cơ ung thư hóa là rất cao. Chính vì thế, chữa khỏi hẳn viêm loét dạ dày, sẽ hạn chế tối đa căn bệnh ung thư dạ dày.

Bệnh khó có lương y

Lương y Lang Thị Quynh năm nay 63 tuổi, sinh ra trong gia đình có truyền thống làm nghề thuốc Nam lâu đời ở xã Yên Nhân. Từ ngày còn nhỏ bà đã theo mẹ lên rừng tìm cây thuốc quý để chữa bệnh giúp người. Với những bài thuốc quý của gia đình, cộng với kinh nghiệm chữa bệnh qua năm tháng cuộc đời, bà Quynh đã đúc rút, nghiên cứu thành công nhiều bài thuốc quý chữa bệnh cứu người. Không chỉ thành công chữa trị cho các bệnh nhân dạ dày, xương khớp, lương y Lang Thị Quynh đã được coi là khắc tinh của những bệnh như: u xơ tử cung, u dạ dày, u phổi, u gan, ... khi cứu chữa cho hàng trăm người thoát bệnh.

Một trong những trường hợp đặc biệt, mà đến hôm nay bà Quynh vẫn còn nhớ mãi là trường hợp của anh Vi Văn P. ở tỉnh Đắc Lắc. Anh bị căn bệnh quái ác ung thư vòm họng. Do công việc bận rộn anh chỉ đi khám khi thấy trong người mệt mỏi, cổ họng đau rát và những cơn ho cứ kéo dài liên tục. Cầm kết luận của Bệnh viện trên tay anh vẫn không khỏi ngỡ ngàng và hoang mang về bện tình của mình. Tuy nhiên qua một lần đọc bài về lương y Quynh chữa nhiều người khỏi u, đẩy lùi bệnh ung thư, vợ con anh đã đưa anh P. đến phòng khám của bà Quynh với tâm niệm “còn nước, còn tát” . Kiên trì dùng thuốc 1 tháng, anh thấy ăn ngon, ngủ ngon, những cơn ho kéo dài đã giảm rõ rệt .Rất vui mừng vì thấy bài thuốc có hiệu quả, tháng thứ 2 anh lại cho người đến lấy thuốc. Cứ như vậy, anh dùng thuốc nam của bà Quynh 4 tháng, đến nay sức khỏe của anh phục hồi Trực tiếp gọi điện cho anh P. với giọng nói trầm ấm, anh vui vẻ kể lại hiện nay anh khỏe mạnh trở lại và đi làm bình thường ,vợ con và gia đình vô cùng vui mừng và phấn khởi. Để cảm ơn tài năng của lương y đã làm bài thơ xúc động tri ân người thầy thuốc cứu vãn cuộc đời mình.

Bài thuốc Nam của bà Quynh hoàn toàn bằng thảo dược, mỗi bài thuốc có tới hơn 10 vị khác nhau được phối hợp một cách tinh hoa và không gây tác dụng phụ. Nhờ nó mà nhiều dân văn phòng thoát khỏi nỗi lo bệnh trĩ, u xơ tử cung, u nang buồng trứng… Có người bệnh vì chứng u nang buồng trứng mà không thể sinh con. Nhưng với bài thuốc Nam quý giá của bà Quynh đã khỏi u nang và sau 3 tháng đã thụ thai. Niềm vui nhân đôi khi vừa hết bệnh, vừa sinh được con. Giờ đây, mỗi dịp Tết đến nhiều bệnh nhân lại cùng gia đình hân hoan đến nhà cảm ơn bà Quynh.

Trong khi trò chuyện với chúng tôi, hoặc thăm khám, bốc thuốc cho các bệnh nhân, tiếng chuông điện thoại của bà Lang Thị Quynh luôn reo. Người thì hỏi thăm đường, người thì hỏi tư vấn cách dùng thuốc, cách sắc thuốc, kiêng cữ... khiến căn nhà của bà luôn náo nhiệt. Tiếng lành đồn xa, giờ đây bệnh nhân đến với bà từ khắp mọi miền tổ quốc, ai nấy đều tìm thấy niềm vui khi mình được thoát khỏi lưỡi hái tử thần.

Với cái tâm của mình cùng sự nỗ lực không ngừng học hỏi trong việc chữa bệnh cứu người, lương y Lang Thị Quynh đã được các cấp, ban ngành ghi nhận những cống hiến trong công cuộc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng và trao tặng những bằng khen cao quý. Nhưng có lẽ đối với bà, niềm hạnh phúc lớn lao nhất khi làm nghề y chính là được nhìn thấy nụ cười hạnh phúc của những bệnh nhân được mình chữa khỏi.

Thông tin liên hệ: Bà Lang Thị QuynhĐC: Khu 2 Thị trấn Thường Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.ĐT: 0378.678.333; 0946.217.111.

Đông y chữa bệnh nám da

Theo y học cổ truyền, những người có da mặt sạm, nám đen thường mệt mỏi, uể oải, đầu nặng, buồn ngủ, lưng đau. Mạch trầm, sác. Nguyên nhân do thận âm hư rồi dẫn đến thận dương cũng hư. Thận thủy bị tướng hỏa phản khắc, ức chế, dần dần gây nám da. Dưới đây là một số bài thuốc uống có thể giúp cải thiện, ngăn ngừa nám và sạm da.

Bài 1: Hà thủ ô (đỏ) 16g, hương phụ 10g, ngải cứu 10g, đậu ván 10g, cúc tần 10g, nhân trần 10g, lạc tiên 12g, cỏ mần trầu 8g, mã đề 8g, bạc hà 8g, cam thảo nam 6g, gừng (nướng) 4g. Tất cả nấu với một lít nước sắc còn 200ml, chia hai lần uống trước bữa ăn. 10 ngày là một liệu trình. Dùng trị chứng nám da do can khí uất, tinh thần không thư thái, thường hay tức ngực, đau tức vùng hông sườn, vú và vùng bụng dưới đau, kinh nguyệt không đều.

Ngải cứu.

Bài 2: Đinh lăng 16g (hoặc đảng sâm 16g), đậu ván 12g, lạc tiên 10g, nhân trần 10g, hương phụ 10g, ngải cứu 10g, trần bì 6g, rễ tranh 8g, cam thảo nam 8g. Sắc uống như trên. Dùng chữa chứng nám da do khí hư: Người mệt mỏi, không có sức, kinh nguyệt không đều, tinh thần không thư thái, sợ lạnh, nước tiểu trong, phân thường mềm nhão, lưỡi có sắc nhạt, rêu lưỡi trắng.

Bài 3: Hà thủ ô 16g (hoặc đương quy 12g), hương phụ 10g, ngải cứu 10g, đậu đen 10g, rau má 12g, nhân trần 10g, lá dâu 8g, lạc tiên 12g, mã đề 8g, cam thảo nam 8g. Sắc uống như trên. Dùng trị chứng nám da do huyết hư: Người gầy yếu, da khô, sắc mặt vàng, hoa mắt, chóng mặt, đi cầu táo, tiểu vàng, nóng, người bứt rứt, mất ngủ, ra mồ hôi trộm, lưỡi nhạt, rêu vàng.

Bài 4: Thục địa (chưng rượu) 20g, hoài sơn (sao vàng) 16g, táo nhục (bỏ hạt) 12g, bạch phục linh 8g, mẫu đơn bì (sao thơm) 12g, trạch tả (ngâm nước muối 2 giờ, sao khô) 8g, thiên hoa phấn 12g, hạ khô thảo 8g, gừng tươi 8g, câu kỷ tử 12g, cúc hoa 8g. Cho các vị thuốc vào nồi, đổ 600ml nước sắc còn 150ml. Sắc 2 lần, hòa chung 2 nước, uống 2 lần trong ngày sau bữa ăn 2 giờ. Uống 10 - 15 thang, nghỉ 7 ngày lại uống tiếp đợt 2. Phụ nữ đang có kinh nguyệt và thai nghén không được uống. Sau khi sinh 2 tháng mới uống.

Bài 5: A giao 12g, xuyên khung (sao rượu) 8g, bạch thược (sao rượu) 12g, bạch phục linh 12g, đương quy 12g, quảng bì (sao thơm) 8g, sinh địa 12g, huỳnh kỳ 8g, thăng ma 8g, chích thảo 6g, bắc sài hồ (tẩm rượu sao thơm) 8g, gừng sống 8g. Sắc uống như bài trên. Bài này chỉ dùng cho phụ nữ đã có con mà da mặt đen sạm.

Bài 6: Ích mẫu thảo 30g, tang ký sinh 30g, trứng gà 4 quả, đường phèn vừa đủ. Trứng luộc, bóc vỏ cho vào nồi nấu với ích mẫu, tang ký sinh. Đổ nước vừa đủ, đun nhỏ lửa trong 30 phút rồi cho đường phèn vào quấy tan; vớt bỏ ích mẫu, tang ký sinh. Ăn trứng uống nước ngày 1 thang. Liên tục trong 10 ngày. Công dụng: Bổ gan, dưỡng huyết, hoạt huyết, trị mặt sạm đen, trứng cá.

Bài 7: Rau má 40g, câu kỷ tử 40g, quế tâm 4g. Tất cả phơi khô, tán bột uống liên tục trong 1 - 2 tháng. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa canh.

Bác sĩ Hoài Hương

Bài thuốc trị chứng cảm mạo lúc nóng, lúc lạnh

Chứng cảm sốt (cảm mạo) lúc nóng lúc lạnh thường gặp ở cả người lớn và trẻ em. Người bệnh bị cảm sốt vài ngày, sốt lui mà lúc nóng lúc lạnh, “hàn nhiệt vãng lai”, đại tiện táo, ngực sườn đầy tức, có khi nôn, bụng đầy đau, rêu lưỡi vàng. Đây thuộc chứng ngoại tà bán biểu bán lý trong y học cổ truyền.

Chứng cảm sốt (cảm mạo) lúc nóng lúc lạnh thường gặp ở cả người lớn và trẻ em. Người bệnh bị cảm sốt vài ngày, sốt lui mà lúc nóng lúc lạnh, “hàn nhiệt vãng lai”, đại tiện táo, ngực sườn đầy tức, có khi nôn, bụng đầy đau, rêu lưỡi vàng. Đây thuộc chứng ngoại tà bán biểu bán lý trong y học cổ truyền.

Nguyên nhân do ngoại tà nhập vào bán biểu bán lý làm cơ thể không thể phát hãn cho ra mồ hôi và cũng không thể xổ cho đi ngoài. Dùng phép hòa giải thiếu dương, tả hạ nhiệt kết… Dưới đây là bài thuốc thường dùng phòng trị chữa chứng này.

Nếu cảm sốt lúc nóng lúc lạnh, đại tiện táo

Dùng bài Đại sài hồ thang (Kim quỹ yếu lược) gia giảm gồm: sài hồ 12g, đại hoàng 8g, bán hạ 12g, sinh khương 16g, hoàng cầm 12g, chỉ thực 12g, bạch thược 12g, đại táo 12g. Sắc uống. Trẻ em dùng liều 1/2 hoặc 1/3 người lớn. Tác dụng: hòa giải thiếu dương, tả hạ nhiệt kết… Trị chứng hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đầy tức, nôn khó, bụng trên đầy đau, đại tiện nhiệt táo kết, rêu lưỡi vàng, thuộc chứng thực nhiệt.

Sài hồ và đại hoàng là 2 vị thuốc trong “Đại sài hồ thang” trị cảm mạo lúc nóng lúc lạnh, đại tiện táo.

Gia giảm: Nếu bụng trên đầy đau, gia qua lâu bì để thanh nhiệt hành khí; sốt nổi mụn do nhiệt tam tiêu, gia chi tử 12g, kim ngân hoa 10g; đi tiểu vàng đậm do thấp nhiệt, gia nhân trần 14g, rễ cỏ tranh 14g.

Kiêng kỵ: mới bị cảm sốt, tỳ vị hư hàn đại tiện lỏng, tay chân lạnh nhiều không dùng.

Nếu uống bài trên, hết táo bón nhưng còn đau thượng vị

Dùng bài Tiểu sài hồ thang (Thương hàn luận) gồm: sài hồ 16g, hoàng cầm 12g, bán hạ 12g, đảng sâm 12g, sinh khương 12g, cam thảo 4g, đại táo 12g, bạc hà 12g. Sắc uống. Trẻ em dùng 1/2 hoặc 1/3 liều người lớn. Tác dụng: hòa giải thiếu thương, sơ can lý tỳ, điều hòa tỳ vị… Trị chứng cảm sốt bán biểu bán lý, người nóng lạnh đau thượng vị, còn trị các chứng can tỳ hư ǎn uống không ngon miệng, buồn nôn, viêm dạ dày.

Gia giảm: nếu sốt nhiều âm hư, gia sinh địa 20g, đơn bì 14g; lạnh nhiều, gia quế tâm 10g; táo bón ho, gia hạnh nhân 12g, mạch môn 14g; bụng đầy đau, gia hương phụ 12g, trần bì 12g, chỉ xác 8g.

Kiêng kỵ: mới bị cảm sốt, chứng cảm lạnh ho đàm nhiều, nghẹt mũi, sổ mũi không dùng.

Nếu cảm sốt nóng lạnh mà miệng đắng

Dùng bài Sài hồ sơ can tán (Trương Cảnh Nhạc) gia vị: sài hồ 12g, hương phụ 10g, chích thảo 6g, bạch thược 16g, chỉ xác 10g, trần bì 12g, xuyên khung 12g, bạc hà 12g, cam thảo 4g, đại táo 12g, sinh khương 12g. Sắc uống. Trẻ em dùng liều 1/2 hoặc 1/3 người lớn. Tác dụng: sơ can, giải uất, lý khí, điều hòa biểu lý, chỉ thống… Trị nội khí thương can, bụng trên đầy trướng, vùng thượng vị đau, ợ hơi, ợ chua kèm chứng ngoại cảm, hàn nhiệt vãng lai.

Gia giảm: nếu ăn kém, tỳ hư, gia đảng sâm 14g, bạch truật 12g; nếu huyết hư, gia đương quy 12g, xuyên khung 12g; nếu nóng trong, gia hoàng cầm 12g; nếu ho khan, táo bón, gia hạnh nhân 12g; miệng khô khát, gia thiên hoa phấn 12g, mạch môn 12g.

Kiêng kỵ: người bị cảm phong hàn mới nhiễm ớn lạnh nghẹt mũi, sổ mũi không dùng.

Lương y Phan Thị Thạnh